Nghiên cứu - Trao đổi » Chính trị

Học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế xã hội dưới ánh sáng thời đại ngày nay

09:12 - 16/08/2018

Học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội mà điểm cốt lõi của nó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. C.Mác đã vận dụng quy luật này để phân tích về sự vận động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa; đồng thời chỉ ra xu hướng phát triển tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa (giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa). Bài viết tiếp cận và phân tích vấn đề cơ bản nhất trong học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội trong thời đại ngày nay.

1. Mở đầu
 
Ra đời từ giữa thế kỷ XIX, đến nay, gần hai thế kỷ đã trôi qua, học thuyết C.Mác đã được thử nghiệm trên thực tế. Những đánh giá về C.Mác, xem ra, còn rất khác nhau, thậm chí trái ngược nhau: có người cho học thuyết C.Mác đã lỗi thời và chủ nghĩa xã hội (CNXH) là một sai lầm của lịch sử. Có người cho học thuyết C.Mác đúng, chỉ có vận dụng nó là sai. Có những người cho học thuyết C.Mác vừa có hạt nhân đúng, vừa có những luận điểm đã bị thời đại bỏ qua... Đánh giá học thuyết C.Mác như thế nào, rõ ràng là một vấn đề không đơn giản. Bởi lẽ, học thuyết C.Mác là một hệ thống lý luận hoàn chỉnh được xây dựng trên cơ sở kế thừa có phê phán những thành tựu khoa học lớn mà loài người đã tạo ra đến thời đại của ông, như: Triết học cổ điển Đức, Kinh tế Chính trị học của Anh và Chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp cùng các thành tựu khác của khoa học tự nhiên. Chính vì vậy, trong bài viết này, tôi không xem xét học thuyết C.Mác với tất cả hệ thống những quy luật, phạm trù của nó, mà chỉ đề cập đến học thuyết C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội.(*)
 
2. Tính khoa học và hạn chế trong học thuyết C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội
 
Như mọi người đều biết, một trong những phát kiến lớn của C.Mác chính là việc ông đã áp dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng để xem xét lịch sử phát triển của xã hội loài người và chỉ ra rằng: lịch sử phát triển ấy chẳng qua là lịch sử của những sự thay thế nối tiếp nhau của những phương thức sản xuất. Còn nguồn gốc thay đổi của phương thức sản xuất, sự mất đi của hình thái kinh tế - xã hội này và sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội khác chính là do mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất (yếu tố động) và quan hệ sản xuất (yếu tố tương đối tĩnh) quyết định, trong đó, lực lượng sản xuất là yếu tố quan trọng, quyết định xu hướng và sự thay đổi. Phân tích sâu sắc những yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, C.Mác chỉ ra rằng, chất của công cụ sản xuất là cái quan trọng nhất, quy định chất của quan hệ sản xuất. Với ý nghĩa đó, nó càng là cái quan trọng nhất, quy định chất của phương thức sản xuất hay một hình thái kinh tế - xã hội xác định trong lịch sử. Đến nay, lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và đang cố gắng thiết lập hình thái cộng sản chủ nghĩa. Ở hình thái cộng sản nguyên thủy, với việc hái lượm và săn bắt, cây gậy chọc hốc và chiếc cung tên đã sản sinh ra chế độ quần cư, ban đầu là mẫu quyền và sau là phụ quyền với các hình thức thị tộc, bộ lạc. Trong đấu tranh với thú dữ và thiên nhiên, chính sự quá thô sơ của công cụ lao động, trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất đã quy định tính chất “công xã, cộng đồng” của chế độ xã hội đầu tiên này của loài người. Xã hội càng phát triển, cái cuốc xuất hiện cộng với sự hợp sức có tổ chức của lao động nô lệ đã tạo được năng suất lao động cao hơn, đã có của cải dư thừa. Xã hội xuất hiện một tầng lớp chiếm hữu được số của cải thừa này - tầng lớp chủ nô. Xã hội chiếm hữu nô lệ xuất hiện với việc phân chia loài người thành hai giai cấp chủ yếu là nô lệ và chủ nô. Xã hội chiếm hữu nô lệ đã vận động quanh trục giai cấp này trong khoảng thời gian không ngắn. Đến khi chiếc cày xuất hiện, nhờ sử dụng công cụ lao động mới này, năng suất lao động cùng với một số tiến bộ trong lĩnh vực khác đã phá bung chế độ chiếm hữu nô lệ, làm sản sinh ra chế độ phong kiến. Xã hội phân chia chủ yếu thành chúa đất và nông dân tự do. Tế bào cơ bản của xã hội chính là gia đình - nơi người nông dân có thể tự mình nhận đất canh tác và nộp tô cho địa chủ, thuế cho nhà nước phong kiến. Cứ như vậy, xã hội phát triển lên. Và đến khi máy hơi nước ra đời, cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử phát triển của công cụ sản xuất bắt đầu. Máy hơi nước phát triển, nhiều trung tâm công nghiệp xuất hiện, thành phố và những thương trường sầm uất nhanh chóng mọc lên. Những giới hạn chật hẹp của lãnh địa phong kiến bị phá tung cùng với những lề thói lạc hậu của nó bị xóa bỏ. Xã hội tư bản được thiết lập trên nền tảng của hai giai cấp tư sản và vô sản với tất cả hệ thống quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng của nó.
 
Với lập luận như vậy, C.Mác đã hoàn toàn đúng khi phân tích và chỉ rõ lịch sử  sự phát triển tự nhiên của xã hội loài người. Ông viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”(1).
 
Nhưng khi C.Mác vận dụng lý luận trên vào việc phân tích xã hội tư bản để rút ra những kết luận cho sự ra đời của chế độ xã hội mới - cộng sản chủ nghĩa thì vấn đề cần phải bàn.
 
Trước hết, nói về chủ nghĩa tư bản (CNTB). Trong toàn bộ các tác phẩm đồ sộ của mình, bao giờ C.Mác cũng gắn sự nảy sinh, phát triển và diệt vong của chế độ xã hội này với sự ra đời, phát triển tiến bộ của nền công nghiệp, nhất là đại công nghiệp cơ khí, mà mở đầu là sự xuất hiện của máy hơi nước và sau đó là hệ thống máy công tác. C.Mác viết: “Hơi nước và máy móc đã dẫn đến cuộc cách mạng trong sản xuất công nghiệp. Đại công nghiệp hiện đại thay chỗ công trường thủ công, tầng lớp kinh doanh công nghiệp bậc trung, các chủ công trường thủ công nhường chỗ cho các nhà công nghiệp triệu phú, cho những người chỉ huy những đạo quân công nghiệp thật sự, cho giai cấp tư sản hiện đại”(2).
 
Như vậy là, công cụ sản xuất đặc trưng của xã hội tư bản không gì khác hơn là nền đại công nghiệp cơ khí, sản xuất bằng máy móc có năng suất cao. Nhưng đến khi luận chứng cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa cộng sản, một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, thì C.Mác cũng không đi xa hơn được bao nhiêu so với thời đại của ông trong việc phân tích, luận chứng cái chất mà lực lượng sản xuất mới phải có. Nếu như về mặt quan hệ sản xuất, ông cho rằng, xã hội mới dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, mọi người đều bình đẳng trong lao động và trong hưởng thụ, thì về mặt lực lượng sản xuất, đặc biệt là công cụ sản xuất, ông chưa bao giờ chỉ rõ ở trình độ phát triển nào, với loại máy móc nào hoặc công cụ lao động hiện đại nào trong chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa sẽ được xây dựng. Hầu như tiêu chí cơ bản mà ông xác định vẫn chỉ là: nền đại công nghiệp cơ khí ở trình độ phát triển cao, sản phẩm làm ra dồi dào để xã hội có thể ghi lên lá cờ của mình khẩu hiệu: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.(2)
 
Cả sau này, khi V.I.Lênin và Đảng Bônsêvic Nga tiến hành cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười và tuyên bố xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, thì những vấn đề lý luận về sự khác biệt về chất của trình độ phát triển của lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản cũng chưa được giải quyết rõ ràng hơn hồi C.Mác bao nhiêu. Trong hầu hết các tác phẩm của mình, V.I.Lênin cũng chỉ xác định cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội không khác gì hơn là nền đại công nghiệp cơ khí có trình độ phát triển cao. Hầu như ai là nhà nghiên cứu về CNXH cũng khó quên câu nói nổi tiếng của V.I.Lênin về vấn đề này: “Chủ nghĩa xã hội là chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hóa toàn quốc”. Nhưng điện khí hóa của CNXH khác gì với điện khí hóa của CNTB thì V.I.Lênin cũng chưa bao giờ có điều kiện chỉ ra. Từ đây, nếu chúng ta trở ngược lại với lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác sẽ thấy xuất hiện mâu thuẫn: trên cùng một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, xã hội loài người đã làm xuất hiện hai hình thái kinh tế - xã hội khác biệt: tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Điều gì đã xảy ra ở đây? Nếu cả hai hình thái kinh tế - xã hội này đều ra đời như một tất yếu, song song tồn tại, thì lý luận mác xít về hình thái kinh tế - xã hội không đúng. Còn nếu lý luận của C.Mác là đúng, thì một trong hai hình thái đã được xây dựng, sẽ không có cơ sở để tồn tại. Phải chăng đây chính là yếu tố then chốt, cơ bản, quyết định tính khoa học và một số hạn chế có tính thời đại trong học thuyết C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội?
 
3. Vận dụng học thuyết C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội trong thế kỷ XX và một số luận điểm cần bổ sung, phát triển
 
Như mọi người đều biết, chủ nghĩa tư bản ra đời là kết quả tất yếu của quá trình phát triển tự nhiên của xã hội. Sở dĩ nó thay thế cho chế độ phong kiến vì nó tạo ra một kiểu tổ chức xã hội mà trong đó năng suất lao động cao hơn nhiều so với năng suất lao động của các xã hội trước. Như C.Mác đã từng nói: “Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những Vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục. Nó buộc tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư bản, nếu không sẽ bị tiêu diệt. Nó buộc tất cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là phải trở thành tư bản. Nói tóm lại, nó tạo ra một thế giới theo hình ảnh của nó”(3).
 
Chủ nghĩa tư bản từ khi ra đời đến nay đã tồn tại hơn ba thế kỷ. Trong lòng nó còn chứa chấp nhiều mâu thuẫn, trong đó, có cả những mâu thuẫn đối kháng, nhưng xem ra, vào những thập kỷ cuối thế kỷ XX và thậm chí cả đầu thế kỷ XXI, nó vẫn chưa bước hẳn vào giai đoạn tột cùng của nó. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai diễn ra từ giữa thế kỷ XX đã mang đến cho nó những sinh lực mới. Chính trong những nước tư bản chứ không phải ở đâu khác, cách mạng sinh học, hóa học và tin học... đã diễn ra và những thành quả của chúng mang lại đã nhanh chóng được áp dụng vào thực tế sản xuất xã hội. Vì thế năng suất lao động trong nhiều nước tư bản chủ nghĩa cao hơn nhiều so với các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng đó là tiêu chí mà theo C.Mác - là cái cơ bản nhất để xem xét sự tiến bộ có tính quyết định của bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào.
 
Ngược lại, chế độ xã hội chủ nghĩa từ khi được tuyên bố thành lập đến nay đã hơn 80 năm, nhưng những gì nó đạt được trên thực tế so với những gì mà mục đích cần đạt tới còn là một khoảng cách xa. Về mặt lực lượng sản xuất, các hệ thống máy móc được dùng trong các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và Đông Âu, nhìn chung, đang lạc hậu hơn khá nhiều so với trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. Thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ XX, nếu nước Nga và Đông Âu mới chỉ dùng máy tính điện tử thế hệ thứ 3, thì Tây Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản, đã chuyển sang dùng loại máy này thế hệ thứ 5, thứ 6. Mức sống bình quân tính theo đầu người ở các nước xã hội chủ nghĩa, vì thế, thấp hơn so với ở các nước tư bản chủ nghĩa. Nghịch lý của CNXH là ở chỗ này. Hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn, đáng lẽ phải xây dựng trên cơ sở sản xuất kỹ thuật hiện đại hơn (thậm chí hơn hẳn về chất) để đảm bảo năng suất lao động cao hơn và của cải dồi dào hơn hẳn các xã hội cũ, thì trên thực tế đang còn thấp hơn. Sự khủng hoảng của mô hình xây dựng CNXH thế giới vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 thế kỷ XX, đến nay, vì thế, là điều đã cơ bản được cắt nghĩa.
 
Chính ở đây, một câu hỏi lớn được đặt ra là: CNXH - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa đã là một tất yếu khách quan chưa? Và để trở thành tất yếu, nó cần những điều kiện kinh tế - xã hội nào?
 
Trả lời những câu hỏi này quả thật không đơn giản. Điều trước tiên là phải quay về với những lý luận mác xít về hình thái kinh tế - xã hội. Trong lịch sử loài người chưa bao giờ và chưa ở đâu một hình thái kinh tế - xã hội nếu chưa phát huy hết vai trò của nó, thì chẳng có ai có thể buộc nó lùi vào lịch sử. Điều ấy có nghĩa là nếu quan hệ sản xuất của một hình thái kinh tế - xã hội chưa thực sự trở thành sợi dây trói buộc sự phát triển của lực lượng sản xuất tiên tiến đang hình thành trong lòng nó, thì nó vẫn cứ tồn tại, bất chấp ý muốn chủ quan của bất kỳ lực lượng xã hội nào. Ngược lại, một xã hội mới, chỉ có thể ra đời khi nó đã có đủ những tiền đề kinh tế, xã hội cho chính bản thân nó. Tiền đề ấy chính là cơ sở vật chất kỹ thuật mới - cái đòi hỏi phải có một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mới đảm bảo cho năng suất lao động xã hội vượt cao hơn nhiều so với năng suất lao động của xã hội cũ.
 
Từ những luận điểm mang tính lý luận này, chúng ta có thể xem xét lại và cắt nghĩa một số những sự kiện và hiện tượng lịch sử trong chặng đường phát triển vừa qua của CNXH.
 
Trước hết, nói về Cách mạng tháng Mười Nga. Đây là cuộc cách mạng mang tên CNXH đầu tiên trên thế giới nổ ra và giành được chính quyền cho giai cấp công nhân trong một nước tư bản có trình độ phát triển chưa cao, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, năng suất lao động còn thấp, tàn dư của chế độ nông nô ở nhiều vùng nông thôn còn nặng nề. Nghĩa là cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nổ ra không phải ở nơi mà C.Mác dự đoán - các nước tư bản phát triển tiên tiến nhất, văn minh nhất. Vì vậy, sau khi giành lấy chính quyền, nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng là giữ chính quyền và sử dụng chính quyền ấy để tạo ra cho mình cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến hiện đại của CNXH. Nhưng lực lượng sản xuất ấy là gì? Những công cụ lao động nào, hệ thống máy móc nào và kiểu tổ chức sản xuất nào...? Những vấn đề này chưa ai làm rõ được, kể cả V.I.Lênin. Vì vậy, cái gọi là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cấp tốc nền công nghiệp nặng dưới thời Stalin, về thực chất là hoàn thành nốt nhiệm vụ mà cách mạng tư sản chưa hoàn thành tức là xây dựng cơ sở vật chất của chính chủ nghĩa tư bản chứ chưa phải là của CNXH như người ta vẫn tưởng.
 
Sau Chiến tranh Thế giới thứ 2, hàng loạt nước tuyên bố đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhưng tiếc thay, cũng vẫn chỉ là những nước có trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa trung bình, thậm chí nhiều nước Châu Á còn đang trong tình trạng nửa phong kiến, lạc hậu. Để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH ở những nước này, không có cách gì khác hơn, là tạo ra trước hết một quyền lực chính trị đủ mạnh để tiến hành những cuộc cải tạo cách mạng xã hội chủ nghĩa triệt để; thủ tiêu mọi hình thức tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể. Bằng cách ấy, người ta nghĩ rằng, có thể dùng tác động có ý thức của kiến trúc thượng tầng mới - xã hội chủ nghĩa, và sức mạnh của quan hệ sản xuất mới kéo vượt được lực lượng sản xuất đang còn thấp kém lên. Nhưng thực tế lại cho câu trả lời khác. Tất cả những cuộc cải tạo quan hệ sản xuất, khi xóa bỏ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, đồng thời lại xóa bỏ luôn cả động lực cá nhân của người lao động. Tất cả đều là của chung, nhưng tất cả lại chẳng là của ai? Lãng phí, tham ô, biển thủ của công và tất cả những gì là thói quen xấu của người tiểu tư sản trỗi dậy tàn phá ngay chính bản thân những gì là cơ sở vật chất kỹ thuật mới còn rất non yếu mà thời kỳ trước để lại. Quan hệ sản xuất mới chẳng những không thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất như người ta tưởng, mà ngược lại, nó kìm hãm chính sự phát triển của những lực lượng sản xuất ấy. Và mỗi khi lực lượng sản xuất tự tìm lối đi theo những quy luật tự nhiên chi phối nó, thì chúng ta lại rung chuông báo động về sự phục hồi và thậm chí phục thù của CNTB.
 
Thật ra, ngay cả nước Nga Xô Viết cũng như ở nhiều nước tuyên bố xây dựng CNXH khác, trong thế kỷ XX, cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, về cơ bản, hầu như vẫn chưa có. Ngay cả nền tảng vật chất kỹ thuật của chính CNTB (nền đại công nghiệp cơ khí) cũng chưa đầy đủ. Vì thế, trong mỗi nước này và trên phạm vi toàn thế giới, một cuộc đấu tranh gay gắt đã diễn ra giữa CNTB chưa hết thời và CNXH còn non yếu. Cuộc đấu tranh này đã làm cho nhiều xung đột trên khắp hành tinh, trong một thời gian dài mang đậm màu sắc ý thức hệ. Đỉnh cao của cuộc đấu tranh ấy là việc phân chia thế giới thành hai hệ thống xã hội đối lập: xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
 
Trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, vì chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật cho chính sự tồn tại của nó, nên người ta đã dựa vào hệ thống chính trị được dựng lên với tất cả sức mạnh chuyên chính của nó để ngăn cản khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa và cố gắng thiết lập quan hệ mới xã hội chủ nghĩa. Lúc đầu chính sức mạnh của hệ tư tưởng, lòng nhiệt tình cách mạng và chủ nghĩa yêu nước đã giúp cho CNXH đứng vững trước nhiều thử thách khó khăn như chiến tranh, sự bao vây của CNTB, sự yếu kém về kinh tế... Nhưng không thể xây dựng CNXH mãi mãi bằng nhiệt tình cách mạng. Những quy luật kinh tế phải thay thế cho lòng nhiệt tình. Đến khi ấy, xã hội đòi trả nó về với những quy luật phát triển tự nhiên.
 
Lịch sử tồn tại gần một thế kỷ qua của CNXH đã chứng kiến biết bao những sự kiện phản ánh quá trình này. Nếu chỉ tính từ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2 đến nay, có thể kể đến sự kiện Berlin ở Đức; ở Hungary; ở Tiệp Khắc; ở Ba Lan; ở Trung Quốc và đặc biệt ở Liên Xô giữa những năm 1980 dẫn đến sự tan rã của Nhà nước Xô Viết và kéo theo nó là mô hình xã hội chủ nghĩa thế giới... Tuy những sự kiện này diễn ra ở những khoảng thời gian khác nhau, quy mô to, nhỏ và ảnh hưởng khác nhau, nhưng tựu trung đều đòi trở lại với những quy luật phát triển tự nhiên của xã hội. Đó là kinh tế thị trường, tự do sản xuất, lưu thông và những đảm bảo cho thể chế dân chủ.
 
Một vấn đề khác gây ra nhức nhối không ít cho những người cộng sản chân chính là: CNXH theo bản chất là xã hội nhân đạo nhất, dân chủ nhất và nhiều tự do nhất cho con người. Nhưng có lúc lại chưa giương cao được ngọn cờ dân chủ tự do. Đến nay, sau những đổ vỡ của CNXH, nhiều sự kiện được người ta biết đến khiến chúng ta không khỏi không suy nghĩ về một số sự việc đã diễn ra ở Liên Xô (dưới thời Stalin), ở Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông và ở nhiều nơi khác nữa. Phải chăng, cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nổ ra khi chưa ở đâu chuẩn bị những điều kiện kinh tế, xã hội đầy đủ cho nó. Do đó, nó phải dựa vào bạo lực để thiết lập quyền lực chính trị của mình và sau đó dùng quyền lực ấy để xây dựng cơ sở kinh tế - xã hội cho chính nó - cái mà những cuộc cách mạng trước nó hoàn toàn không phải làm. Thời gian của cuộc cách mạng kéo dài, chưa biết thời gian kết thúc. Ngay cả ở Liên Xô (cũ), có thời người ta tuyên bố đã tiến vào giai đoạn CNXH phát triển. Nhưng thực ra nó vẫn chưa ra khỏi thời kỳ quá độ, thời kỳ xây dựng cơ sở - vật chất kỹ thuật cho chính mình; mà thông thường, bất kỳ cuộc cách mạng nào kéo dài cũng phải đổ nhiều máu, mồ hôi và nước mắt. Vì có ai dám chắc rằng, trong thời kỳ cách mạng không có hành động của bên này hay bên kia. Hơn thế nữa, đối thủ của CNXH là CNTB lại chưa thật đã lỗi thời. Vì vậy, phản ứng của nó càng thêm quyết liệt. Đó là những gì có thể cắt nghĩa được cho nhiều sự biến khó hiểu đã xảy ra dưới mô hình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ XX, xã hội mà về bản chất, theo C.Mác không thể có những sự biến như thế. Đây là một số vấn đề lý luận và thực tiễn có thể rút ra từ thực tế xây dựng CNXH trong thế kỷ XX, cần có những nghiên cứu và luận giải tiếp tục.
 
4. Vận dụng và phát triển học thuyết C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội trong thời đại ngày nay
 
Như vậy, học thuyết C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội đã được thực tiễn khắc nghiệt kiểm nghiệm. Sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu cùng những thiếu sót nghiêm trọng về mọi mặt của các nước tuyên bố theo con đường xã hội chủ nghĩa cũng không thể coi là bằng chứng bác bỏ tính khoa học của học thuyết C.Mác. Tất cả những gì đã diễn ra chỉ chứng tỏ rằng, chưa có ở đâu trên trái đất này có đủ những điều kiện cần thiết cho sự ra đời của xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Những lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa cộng sản: dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái, không có áp bức bóc lột, thế giới đại đồng... vẫn là những mơ ước ngàn năm và vẫn là mục đích đấu tranh của thế giới văn minh ngày nay. Với những ý nghĩa đó, có thể nói rằng, không phải thời đại chúng ta đã bỏ qua học thuyết C.Mác mà chính học thuyết C.Mác đã vượt qua ngay cả thời đại chúng ta. Điều đó không có nghĩa là mọi luận điểm mà học thuyết C.Mác nêu ra đều đúng. Nếu chỉ xét học thuyết C.Mác trong phạm trù hình thái kinh tế - xã hội ta đã thấy rằng: cho đến nay chưa ai có thể phủ nhận sự phân tích mác xít về tiến trình lịch sử. Nhưng do những hạn chế thời đại của mình, C.Mác và những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác chưa bao giờ luận chứng được rõ ràng, cụ thể lực lượng sản xuất mà xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cần phải thiết lập. Với những loại công cụ sản xuất nào? Máy móc và hệ thống máy móc nào? Kiểu tổ chức sản xuất xã hội mới về chất nào sẽ được xây dựng lên? Đấy vẫn là câu hỏi lớn đặt trước loài người chúng ta.
 
Phải chăng, việc phân tích nghiêm túc xã hội tư bản hiện đại sẽ giúp chúng ta mở ra khả năng giải quyết từng bước vấn đề này? Như mọi người đều biết, từ giữa những năm 50 của thế kỷ XX, thế giới đã bước vào giai đoạn phát triển mới. Với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ lần thứ hai, lực lượng sản xuất đã tiến những bước dài. Con người không chỉ đi ra ngoài khoảng không vũ trụ tìm hiểu thế giới vĩ mô, mà còn tiến sâu tìm hiểu thế giới vi mô, khám phá ra những bí mật của những vật chất có xung quanh chúng ta để tạo ra những chất mới. Những phát kiến lớn đã diễn ra trong lý học, sinh học, hóa học và nhất là trong lĩnh vực tin học đã tạo cho con người những khả năng chưa từng có trong lịch sử phát triển của mình. Năng suất lao động xã hội tăng không ngừng. Việc cơ khí hóa, điện khí hóa, hóa học hóa, tự động hóa và cách mạng xanh... đã thật sự giải phóng con người dần dần thoát khỏi lao động nặng nhọc, độc hại. Giờ làm việc và ngày làm việc trong tuần của lao động nhiều nước cũng đang được giảm xuống. Thời gian tự do sau lao động của con người ngày càng tăng lên. Ở một số nước tiên tiến hiện nay, số người lao động trong các khu vực dịch vụ xã hội lại nhiều hơn cả số người làm việc trong những khu vực sản xuất vật chất. Nhiều chuyên gia dự đoán rằng, nền sản xuất của xã hội trong tương lai, các robot sẽ đóng vai trò quan trọng. Khoa học kỹ thuật ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Và con người chỉ còn đóng vai trò nhạc trưởng trong dàn hợp xướng đại sản xuất. Đến lúc ấy, vai trò của văn hóa, khoa học ngày càng tăng lên. Ai chiếm hữu và sử dụng được nhiều chất xám, người đó sẽ nắm giữ chìa khóa mở vào thế giới tương lai. Sự giao lưu quốc tế về mọi mặt sẽ được tăng cường và tiếp tục mở rộng hơn nữa cho mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Bên cạnh những sắc thái dân tộc độc đáo, thế giới sẽ hình thành một nền văn minh cộng đồng. Và nếu quá trình quả thật là như vậy, thì cách mạng và sự đối đầu giữa lực lượng tiến bộ và lạc hậu như những cuộc cách mạng xã hội trước đây sẽ có thể là không cần thiết nữa. Xã hội mới văn minh - như mong ước ngàn đời của loài người sẽ ra đời trong sự hòa hợp giữa các giai tầng xã hội và các dân tộc. Kinh tế tri thức và toàn cầu hóa đang đặt cơ sở kinh tế kỹ thuật cho xã hội loài người phát triển theo xu hướng tất yếu này. Ở từng nước, trong từng khu vực, căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà xác định lộ trình, kế hoạch và những biện pháp cần thực hiện nhằm xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa trên tất cả các phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng trong sự phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh của mình.
 
Chủ nghĩa Mác, rõ ràng, không mất đi tính khoa học của nó, nhưng áp dụng nó như thế nào, vào thời điểm nào, ở đâu, với những bước đi nào còn là vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu trên cơ sở phân tích thật sự nghiêm túc tiến trình hiện nay của sự phát triển lực lượng sản xuất của xã hội loài người.

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.Nghiên cứu này được Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia (Nafosted) tài trợ trong đề tài mã số I1.1-2012.08.

(1) C.Mác (1973), Tư bản, q.1, t.1, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.388.

(2) C.Mác và Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, t.1, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.542.

(3) C.Mác và Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, t.1, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.540.

Tài liệu tham khảo
  1. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.4,13,19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  2. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, t.33, 36, 37, 38, 39, 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
  3. Chu Văn Cấp (2009), Đề tài trọng điểm cấp Học viện: “Nhận thức giá trị kinh điển Mác - Lênin”, Hà Nội.
  4. Nguyễn Trọng Chuẩn và cộng sự (1997), Những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  5. Nguyễn Ngọc Long (2009), Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  6. Trần Nhâm (2010), Chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết về sự phát triển sáng tạo không ngừng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  7. Nguyễn Quốc Phẩm, Đỗ Thị Thạch (2010), Một số khía cạnh nhận thức mới về  chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lý luận - Hành chính, Hà Nội.
  8. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo (2009), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  9. Lê Hữu Tầng (2000), Đề tài KX 01.08: “Chủ nghĩa xã hộitừ lý luận đến thực tiễn, những bài học kinh nghiệm chủ yếu”, Hà Nội.
  10.  Trịnh Quốc Tuấn và cộng sự (1998), Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  11.  Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: “Lý luận mác xít và thực tiễn thế giới ngày nay”, tháng 2, Hà Nội.
  12.  Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2012), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: “Các trường phái mác xít phương Tây đương đại”, tháng 4, Hà Nội.       

Tác giả: Nguyễn Chí Dũng

Nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam (số 2 - 2015)

Tags: C.Mác học thuyết hình thái kinh tế xã hội khoa học xã hội nghiên cứu khoa học Viện hàn lâm khoa học xã hội Viện Hàn Lâm Tạp chí khoa học xã hội Nguyễn Chí Dũng
Tin cùng chuyên mục