1. Đặt vấn đề
Tư duy lý luận là sự hiểu biết ở trình độ lý luận (chứ không phải ở trình độ kinh nghiệm) về thế giới nói chung và về các vấn đề của xã hội nói riêng. Để đạt được kết quả cao trong hoạt động thực tiễn, mọi người nói chung và cán bộ lãnh đạo và quản lý nói riêng cần có tư duy lý luận. Trình độ tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo và quản lý có vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội. Bởi vì, có hiểu biết sâu sắc ở trình độ lý luận về thế giới thì họ mới hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý của mình.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư duy lý luận của người Việt Nam nói chung và cán bộ lãnh đạo và quản lý (của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội) nói riêng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa nhận thức rõ về thực trạng trình độ tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay, đồng thời vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu để nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ này. Bài viết này góp thêm ý kiến về thực trạng và giải pháp nâng cao trình độ tư duy lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo và quản lý.
2. Trình độ tư duy lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam hiện nay, đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý (cán bộ lãnh đạo và quản lý thuộc hệ thống chính trị) được hình thành từ nhiều nguồn, nhưng đều trưởng thành từ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ được tuyển chọn và bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo và quản lý thuộc hệ thống chính trị theo quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt, trên cơ sở tham gia ý kiến của nhiều tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và nhân dân. Đa số họ có hiểu biết nhất định về một chuyên môn nghề nghiệp nào đó, đồng thời có hiểu biết ở trình độ cơ bản về lý luận chính trị (trình độ sơ cấp, trung cấp, cao cấp, cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ về lý luận chính trị). Họ được trang bị kiến thức ở trình độ cơ bản về lý luận chính trị tại các khóa học của các trường chính trị các cấp. Chẳng hạn, Đắk Lắk là một tỉnh miền núi, còn nhiều khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk đã được đào tạo lý luận chính trị có hệ thống (tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và trường chính trị tỉnh). Tính đến tháng 6 năm 2017, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp tỉnh có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị trở lên là 95,58%. Ở các địa phương khác trong cả nước, hầu hết cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp cũng có trình độ cơ bản về lý luận chính trị như ở Đắk Lắk.
Đánh giá về trình độ tư duy lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo và quản lý cần phải căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau. Trong đó, tiêu chí về bằng cấp là tiêu chí thực tế. Bởi vì, người có bằng cấp về lý luận chính trị là người đượcđào tạo về lý luận chính trị, có kiến thức về lý luận chính trị, kiến thức đó được các cơ sở đào tạo về lý luận chính trị ở nước ta kiểm tra và đánh giá theo quy trình chung. Với tiêu chí này, hầu hết cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp đương nhiên đều có trình độ nhất định về luận chính trị (ít nhất ở bậc sơ cấp). Kết quả đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân ở chỗ, Đảng và Nhà nước có những quy định bắt buộc về tiêu chuẩn đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý, trong đó có tiêu chuẩn bằng cấp về lý luận chính trị (bằng cấp về lý luận chính trị được hiểu bao hàm cả bằng cấp về quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng…). Theo quy định đó, một người muốn được đề bạt, bổ nhiệm vào một chức vụ lãnh đạo và quản lý nào đó thì cần có bằng cấp tương ứng về lý luận chính trị (một số người có thể được bổ nhiệm vào một chức vụ lãnh đạo và quản lý nào đó dù chưa có bằng cấp tương ứng về lý luận chính trị, nhưng đó chỉ là số ít).
Khi đánh giá về trình độ tư duy lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo và quản lý, chúng ta không chỉ căn cứ vào tiêu chí về bằng cấp, mà còn cần phải căn cứ vào tiêu chí kết quả của hoạt động thực tiễn. Người có trình độ càng cao về tư duy lý luận chính trị (có tư duy lý luận chính trị đúng đắn và sâu sắc) thì sẽ càng đạt được kết quả cao trong hoạt động thực tiễn. Căn cứ vào tiêu chí này, có thể khẳng định rằng, hầu hết cán bộ lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay có trình độ tốt về lý luận chính trị. Nhờ có trình độ tốt về lý luận chính trị, nên đa số cán bộ lãnh đạo và quản lý có bản lĩnh chính trị vững vàng; kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; không dao động trước mọi tình huống; có tinh thần quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ; có thái độ kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tích cực đấu tranh chống lại các quan điểm chính trị sai trái. Cũng nhờ có trình độ tốt về lý luận chính trị như vậy, nên đa số cán bộ lãnh đạo và quản lý có khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước vào thực tiễn của địa phương và ngành; giải quyết đúng đắn, kịp thời những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn; hoàn thành nhiệm vụ được giao. Chẳng hạn, đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk nhờ có trình độ nhất định về lý luận chính trị nên đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước vào thực tiễn địa phương. Họ là những người trực tiếp gắn bó với địa phương; trưởng thành trong phong trào quần chúng; tích luỹ được nhiều kinh nghiệm thực tiễn; hiểu rõ tâm tư nguyện vọng, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của 47 dân tộc trong tỉnh; có khả năng phát hiện vấn đề và đưa ra các giải pháp để giải quyết những vấn đề cụ thể, phong phú, phức tạp phù hợp với thực tiễn của địa phương; phát huy được các điều kiện sẵn có ở địa phương; từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời, chính xác, phù hợp với thực tiễn ở địa phương. Từ những kinh nghiệm phong phú và đa dạng có được trong quá trình hoạt động và chỉ đạo thực tiễn, đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk đã xử lý công việc khôn khéo theo truyền thống văn hóa đa dạng của các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Nhờ đó, Đắk Lắk tuy là tỉnh có sự đa dạng về văn hóa, sắc tộc, tôn giáo, là địa phương mà các thế lực thù địch có nhiều hoạt động chống phá, nhưng vẫn có được sự phát triển tốt về kinh tế - xã hội, giữ vững được an ninh chính trị và trật tự xã hội. Nếu cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp tỉnh ở Đắk Lắk không có trình độ tốt về lý luận chính trị thì họ không thể lãnh đạo và quản lý tỉnh Đắk Lắk đạt được kết quả như vậy. Nhìn chung cả nước, tình hình cũng tương tự tỉnh Đắk Lắk. Đa số cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp ở nước ta cũng đều có trình độ tốt về lý luận chính trị. Điều đó thể hiện ở kết quả tích cực trong lãnh đạo và quản lý của họ. Kết quả tích cực này thể hiện ở chỗ, đất nước có mức độ tăng trưởng cao về kinh tế, bảo đảm ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, uy tín quốc tế được nâng cao. Nếu cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp không có trình độ tốt về lý luận chính trị thì đất nước ta không có sự phát triển như vậy.
Trình độ tư duy lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo và quản lý nhìn chung đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Điều đó, như đã nói ở trên, thể hiện ở chỗ, đa số họ được đào tạo có hệ thống về lý luận chính trị, đạt được những kết quả tích cực trong hoạt động lãnh đạo và quản lý. Tuy nhiên, bên cạnh đó, trình độ tư duy lý luận chính trị của nhiều cán bộ lãnh đạo và quản lý cũng còn những hạn chế sau.
Thứ nhất, nhiều cán bộ thiếu hiểu biết về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của thế giới nói chung, ở trong nước nói riêng. Trong hơn 30 năm đổi mới, kinh tế - xã hội nước ta đã có những bước phát triển đáng kể; đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ và nhân dân được cải thiện và từng bước nâng cao; an ninh - quốc phòng và trật tự an toàn xã hội được giữ vững và tăng cường. Những thành tựu to lớn đạt được đã tạo những điều kiện thuận lợi cơ bản cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý có điều kiện thuận lợi để học tập và nâng cao trình độ tư duy lý luận của mình. Tuy nhiên, ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo và quản lý, tư duy chủ yếu là tư duy kinh nghiệm (trực quan, cảm tính); tư duy lý luận còn hạn chế. Do đó, tuy có bằng cấp, nhưng họ vẫn lúng túng trong việc hoạch định kế hoạch công tác cũng như tổ chức thực tiễn ở địa phương mà mình phụ trách, tức là họ có bằng cấp nhưng không có thực học.
Thứ hai, nhiều cán bộ không nắm bắt đầy đủ và chính xác tình hình thực tiễn đất nước. Yêu cầu quan trọng và cần thiết đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp là phải hiểu biết các mặt, lĩnh vực của đất nước và địa phương. Có như vậy người cán bộ lãnh đạo và quản lý mới kịp thời phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, dự báo đúng xu hướng phát triển của xã hội, trên cơ sở đó có những quyết định thích hợp. Ví dụ, thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở Đắk Lắk trong những năm qua đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp (như di dân tự do, xung đột dân tộc và tôn giáo, tranh chấp đất đai, chống phá của các thế lực thù địch…). Để giải quyết được các vấn đề khá phức tạp đó, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp không chỉ cần có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, mà còn phải có năng lực nắm bắt thực tiễn, dự báo xu hướng phát triển của địa phương cũng như của đất nước. Tuy nhiên, nhiều cán bộ không làm được như vậy. Họ thiếu chủ động, không biết cách giải quyết đúng đắn, từ đó làm cho tình hình trở nên phức tạp không đáng có. Ở các cấp và các địa phương khác trong nước cũng có tình hình như vậy. Nhiều cán bộ mắc bệnh giáo điều, sách vở. Họ đọc nhiều sách vở nhưng lại thiếu hiểu biết về tình hình thực tiễn; từ đó họ đưa ra những quyết định không phù hợp. Nhiều quyết định họ vừa ban hành đã phải hủy bỏ ngay do phản ứng của dư luận.
Thứ ba, nhiều cán bộ còn yếu kém trong việc tổng kết thực tiễn. Tổng kết thực tiễn để đổi mới đường lối, chủ trương, chính sách cho phù hợp là yêu cầu thường xuyên và cơ bản đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý ở cơ sở. Cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp cơ sở là khâu quan trọng để kết nối đưa chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với mọi người dân. Đồng thời, họ là người trực tiếp kiểm nghiệm sự phù hợp hay chưa phù hợp các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Việc nắm chắc tình hình ở cơ sở, vận dụng sáng tạo các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên có ý nghĩa quan trọng đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp cơ sở. Chỉ có nắm bắt, nhận thức đúng diễn biến đời sống thực tế ở cơ sở thì mới có hành động đúng đắn và đưa ra được các quyết định phù hợp với thực tế. Ngược lại, nhận thức không đầy đủ về cơ sở thì quyết định đưa ra sẽ không sát với thực tế, quá trình tổ chức thực tiễn sẽ không mang lại hiệu quả. Tuy nhiên, năng lực tổng kết thực tiễn của nhiều cán bộ lãnh đạo và quản lý còn bị hạn chế. Khi đưa ra các quyết định, nhất là khi giải quyết những vấn đề mới nảy sinh, họ còn lúng túng, bị động, dao động. Trong tổ chức thực tiễn, họ thường xử lý công việc theo kiểu “gặp đâu, làm đó”, “sai đâu sửa đó”, cách xử lý như vậy là thiếu căn cứ lý luận.
3. Giải pháp nâng cao trình độ tư duy lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam
Thứ nhất, tăng cường giáo dục tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộlãnh đạo và quản lý. Giáo dục tư duy lý luận là một trong các bộ phận hợp thành của công tác tư tưởng của Đảng, có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng. C.Mác đã chỉ rõ: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”
[1, tr.580]. V.I.Lênin khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không có phong trào cách mạng”
[7, tr.30-32] và “chỉ đảng nào được lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”
[4, tr.289]. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”
[4. tr.289]. Giáo dục tư duy lý luận là nhằm trang bị cho cán bộ những hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Hiện nay, đại bộ phận cán bộ lãnh đạo và quản lý đã được đào tạo cơ bản về lý luận chính trị, nhưng không phải ai cũng chuyển hóa những kiến thức lý luận đã học thành tư duy của mình, họ thuộc bài nhưng không hiểu bài. Vì vậy, để nâng cao trình độ tư duy lý luận chính trị của đội ngũ này, cần tạo bước đột phá trong việc giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo và quản lý. Cụ thể, cần tăng cường xây dựng cơ chế, chính sách cởi mở để thu hút đội ngũ giảng viên từ cán bộ lãnh đạo, quản lý và các chuyên gia giỏi. Cần có quy định cụ thể để cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có nhiệm vụ giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị. Để làm cho công tác giáo dục tư duy lý luận có hiệu quả, cần có cơ sở vật chất và kinh phí phù hợp. Những năm qua, các cơ sở đào tạo đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng cơ sở vật chất (như: hội trường, phòng học, thư viện, tài liệu, sách giáo khoa, đồ dùng dạy học...). Tuy nhiên, ở một số cơ sở đào tạo, cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị còn đơn sơ; ngân sách dành cho công tác giáo dục lý luận chính trị vẫn còn rất hạn chế so với yêu cầu; đời sống của người dạy và người học còn khó khăn.
Thứ hai, phải đổi mới nội dung giáo dục tư duy lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý theo hướng thực học. Hiện nay, phần lớn đội ngũ cán bộ nhà nước đã phát huy được vai trò của mình trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị và đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Qua học tập và từ thực tiễn công tác, nhiều cán bộ đã trưởng thành và hoàn thành tốt vai trò lãnh đạo, quản lý của mình. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo hướng nhanh và bền vững, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ nhà nước đòi hỏi phải đổi mới căn bản nội dung giáo dục tư duy lý luận chính trị theo hướng thực học (tức là người học không chỉ thuộc lòng bài giảng, mà phải có kiến thức thực sự, nội dung lý luận chính trị giảng dạy phải gắn với thực tiễn, phù hợp với thực tiễn). Nội dung đào tạo phải thiết thực, phù hợp với từng loại chức danh cán bộ; phải bảo đảm tính kế thừa (ở bậc đào tạo càng cao thì nội dung càng chuyên sâu, không có sự trùng lắp với nội dung ở bậc học dưới). Các cơ sở giáo dục lý luận chính trị (các trường chính trị tỉnh, thành phố, huyện, quận, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) đã chủ động và tích cực đổi mới nội dung đào tạo cho phù hợp với từng đối tượng học viên và bảo đảm tính khoa học, tính thực tiễn, tính tư tưởng, tính sư phạm. Điều đó bước đầu đã gây hứng thú cho người học, được học viên đánh giá tốt. Tuy nhiên, việc đổi mới nội dung đào tạo cần được đẩy mạnh hơn nữa. Việc đổi mới nội dung giáo dục tư duy lý luận chính trị cần xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của đất nước. Nội dung đào tạo phải thiết thực, phù hợp với từng đối tượng, vừa chú trọng kiến thức cơ bản vừa chú trọng kỹ năng thực hành, nhất là trong việc định hướng xử lý các tình huống nảy sinh trong thực tiễn hoạt động.
Thứ ba, phải đổi mới phương pháp giáo dục tư duy lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý được hình thành từ nhiều nguồn, đa số trưởng thành từ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trình độ tư duy lý luận chính trị của họ không đồng đều. Do đó, phương pháp giáo dục tư duy lý luận chính trị cho họ phải quán triệt phương châm biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, phát huy tính tích cực của người học, biến những tri thức được tiếp nhận thành niềm tin của họ. Các môn lý luận chính trị có tính đặc thù so với các môn khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ. Do vậy, giảng viên khi sử dụng phương pháp thuyết trình trong giảng dạy phải chú ý kích thích học viên đặt câu hỏi, tranh luận. Trong mối quan hệ hữu cơ giữa giảng viên và học viên thì học viên giữ vị trí trung tâm, còn giảng viên có vai trò chủ đạo. Phương pháp dạy học có hiệu quả phải “lấy người học làm trung tâm”, chứ không phải “lấy người dạy làm trung tâm”. Người học phải tự khám phá, tự chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Giảng viên phải tạo điều kiện cho học viên thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi, bình luận, phản biện. Cần đổi mới hình thức viết tiểu luận cuối khóa. Giảng viên lý luận chính trị là lực lượng xung kích đóng vai trò quyết định đối với việc nâng cao trình độ tư duy lý luận chính trị cho đội ngũ này. Vì vậy, giảng viên cần thường xuyên tự học, tự cập nhật những quan điểm mới và tiến bộ. Việc xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên lý luận chính trị đủ về số lượng và có chất lượng cao là nhân tố trực tiếp quyết định việc nâng cao hiệu quả giáo dục tư duy lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo và quản lý.
4. Kết luận
Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, về cơ bản nước ta vẫn còn là một nước nghèo. Nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài là tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Muốn vậy, Đảng và Nhà nước phải có đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn; đội ngũ cán bộ phải có đủ phẩm chất, năng lực. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình, đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý cần phải có trình độ tư duy lý luận chính trị cao; cần hiểu đúng quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của của Đảng và Nhà nước; cần hiểu rõ đặc điểm tình hình của thực tiễn. Có như vậy họ mới đưa ra được các quyết định, kế hoạch, chương trình hành động một cách đúng đắn. Để có được trình độ tư duy lý luận chính trị cao, con đường cơ bản nhất là tự giác học tập tư duy lý luận chính trị ở nhà trường và trong thực tiễn.
Tài liệu tham khảo
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắk Lắk (2014), Hướng dẫn số 84 - HD/TG, ngày 15 tháng 10 năm 2014 về Công tác giáo dục lý luận chính trị năm 2015, Đắk Lắk.
[3] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2011),
Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Nguyễn Ngọc Long (1987), “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy”, Tạp chí Cộng sản, số 10.
[6] Trần Nhâm (2004), Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7] V.I.Lênin (1975),
Toàn tập, t.6, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
Tác giả: Đặng Nguyên HàNguồn: Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2018