Nghiên cứu - Trao đổi » Kinh tế

Tham gia TPP: Thách thức và giải pháp đối với nền kinh tế Việt Nam

13:00 - 27/09/2018

Việt Nam mới đây đã chính thức tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tham gia TPP, Việt Nam có nhiều lợi ích trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút đầu tư, mở rộng lĩnh vực dịch vụ tài chính, thuận lợi trong tiếp cận thị trường các nước... Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đó, Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức không nhỏ như: về môi trường pháp lý, thể chế; về cạnh tranh, thương mại hàng hoá;về tài chính ngân hàng; về mở cửa thị trường mua sắm công, v.v.. Tác giả bài viết cho rằng, để chủ động khai thác, tận dụng có hiệu quả lợi ích gia nhập TPP; đồng thời, thích ứng và vượt qua những thách thức từ Hiệp định này, Việt Nam cần có các giải pháp mạnh mẽ từ phía Nhà nước, người dân và doanh nghiệp.

1. Mở đầu
 
Tháng 2 năm 2016, TPP chính thức được ký kết giữa 12 nước thành viên, gồm: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam, với tổng dân số là 790 triệu người, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) khoảng 28.000 tỉ USD, khoảng 40% GDP toàn cầu và 1/3 thương mại thế giới. Theo một nghiên cứu định lượng của Trung tâm Đông - Tây (East-WestCenter) thì tác động của TPP trong thời gian đầu là tương đối nhỏ, song đến năm 2025, TPP có thể đem lại gia tăng thu nhập cho nền kinh tế toàn cầu lên đến 104 tỷ USD [9]. Đối với Việt Nam, theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, TPP sẽ giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 23,5 tỷ USD vào năm 2020 và 33,5 tỷ USD vào năm 2025. Xuất khẩu sẽ tăng thêm được 68 tỷ USD vào năm 2025 [10].
 
Khác so với cam kết trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký trước đây, TPP có mức độ cam kết mở cửa thị trường cao hơn, đưa ra các tiêu chuẩn toàn diện hơn, cân bằng lợi ích về thương mại hàng hóa, dịch vụ đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và những cam kết về thể chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công...nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch và cạnh tranh công bằng. TPP được coi là một FTA thế hệ mới, đánh dấu bước quan trọng hướng tới mục tiêu cuối cùng là tự do hóa thương mại và hội nhập trong toàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Bài viết nêu nội dung cơ bản của TPP, phân tích những thách thức và đề xuất một số giải pháp đối với Việt Nam khi gia nhập TPP.  
 
2. Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
 
TPP gồm 30 chương điều chỉnh thương mại và các vấn đề liên quan thương mại. Ngoài phần mở đầu về các điều khoản và định nghĩa chung, phần cuối về các ngoại lệ, các chương quy định cụ thể trong các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định, những nội dung cơ bản của TPP bao gồm [5, tr.4]:
 
(1) Thương mại hàng hóa: xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp; xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các chính sách mang tính hạn chế đối với hàng hóa nông nghiệp; xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp; nâng cao tính minh bạch trong vận hành doanh nghiệp nhà nước (DNNN) xuất khẩu và trong các hoạt động công nghệ sinh học nông nghiệp.
 
(2) Dệt may: xóa bỏ thuế quan đối với hàng dệt may; quy định cụ thể về việc sử dụng sợi và vải từ khu vực TPP, cũng như từ bên ngoài theo cơ chế “nguồn cung thiếu hụt”.
 
(3) Quy tắc xuất xứ: TPP thống nhất một bộ quy tắc xuất xứ chung để xác định một hàng hóa cụ thể được hưởng thuế quan ưu đãi giữa các nước thành viên, bảo đảm doanh nghiệp hoạt động dễ dàng xuyên khu vực thông qua một hệ thống chung về chứng minh và kiểm tra xuất xứ hàng hóa TPP.
 
Ngoài ra, TPP sẽ còn thống nhất nhiều luật lệ, quy tắc chung giữa các nước này (như: chất lượng thực phẩm, an toàn lao động...).
 
(4) Quản lý hải quan và thuận lợi hóa thương mại: thúc đẩy tạo thuận lợi cho thương mại; nâng cao tính minh bạch trong thủ tục hải quan, xử phạt; cung cấp thông tin nhằm hỗ trợ thực thi Luật Hải quan.
 
(5) Các biện pháp vệ sinh, kiểm dịch động thực vật (SPS); hàng rào kỹ thuật thương mại (TBT) và phòng vệ thương mại: bảo đảm các quy định về SPS, các tiêu chuẩn kỹ thuật được đưa ra dựa trên căn cứ khoa học, mang tính minh bạch, không phân biệt đối xử, không tạo ra rào cản đối với thương mại.
 
(6) Đầu tư: các cam kết nghĩa vụ dựa trên cơ sở một “danh mục chọn - bỏ”, nghĩa là thị trường các nước mở hoàn toàn đối với nhà đầu tư nước ngoài, trừ khi có ngoại lệ theo các phụ lục đính kèm.
 
(7) Thương mại dịch vụ qua biên giới; dịch vụ tài chính: không áp dụng hạn chế định lượng đối với việc cung cấp dịch vụ; mở cửa thị trường đầu tư qua biên giới, bảo đảm duy trì quyền quản lý đầy đủ đối với các tổ chức và thị trường tài chính, thực hiện các biện pháp khẩn cấp khi xảy ra khủng hoảng.
 
(8) Viễn thông thương mại điện tử: bảo đảm mạng viễn thông hiệu quả và đáng tin cậy; ngăn chặn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất hoặc các nhà cung cấp dịch vụ trong nước đối với các sản phẩm kỹ thuật số.
 
(9) Mua sắm của chính phủ: mở cửa thị trường mua sắm chính phủ thông qua các quy định công bằng, minh bạch, có thể dự đoán và không phân biệt đối xử.
 
(10) Chính sách cạnh tranh: bảo đảm khung khổ cạnh tranh bình đẳng thông qua yêu cầu duy trì hệ thống luật pháp; cấm những hành vi kinh doanh phi cạnh tranh, gian lận thương mại và lừa đảo, gây thiệt hại cho người tiêu dùng...; hợp tác thực thi Luật Cạnh tranh thông qua thông báo, tham vấn hoặc trao đổi thông tin.
 
(11) Doanh nghiệp nhà nước: bảo đảm DNNN hoạt động thương mại trên cơ sở tính toán thương mại, trừ nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công; các DNNN hoặc đơn vị độc quyền không có hoạt động phân biệt đối xử với các doanh nghiệp, hàng hoá dịch vụ của thành viên khác.
 
(12) Sở hữu trí tuệ: quy định cụ thể về tiêu chuẩn, các cam kết liên quan bằng sáng chế, nhãn hiệu, bản quyền, bí mật thương mại, các hình thức khác của quyền sở hữu trí tuệ và các lĩnh vực đồng ý hợp tác.
 
(13) Lao động, môi trường: thừa nhận mối liên hệ giữa quyền của người lao động với thương mại, duy trì trong luật và thông lệ các quyền cơ bản của người lao động, xóa bỏ lao động cưỡng bức, lao động trẻ em, xóa bỏ phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp. Cam kết mạnh mẽ bảo vệ và bảo tồn môi trường, hợp tác giải quyết các thách thức về môi trường.
 
(14) Doanh nghiệp vừa và nhỏ: quy định thành lập Ủy ban Doanh nghiệp vừa và nhỏ để rà soát mức độ hỗ trợ của TPP cho các doanh nghiệp; cân nhắc các cách thức để nâng cao hơn nữa những lợi ích của Hiệp định và giám sát các hoạt động hợp tác hoặc nâng cao năng lực; chia sẻ thông tin. Ngoài ra, TPP còn có các quy định cụ thể liên quan đến các vấn đề nhập cảnh tạm thời của nhà kinh doanh; hợp tác và nâng cao năng lực; gắn kết môi trường chính sách; minh bạch hóa và chống tham nhũng; các điều khoản về hành chính và thể chế; giải quyết tranh chấp.
 
Những quy định trên đây của TPP thể hiện mạnh mẽ sự cam kết của các nước thành viên về hàng loạt những thỏa thuận mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, đầu tư công, điều kiện lao động,... mà trước đây có nhiều khác biệt giữa các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản và các nước có trình độ phát triển thấp, trong đó có Việt Nam. Việt Nam tham gia TPP được đánh giá là nước hưởng lợi nhiều nhất trên cả 3 lĩnh vực: tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu. Mục tiêu của TPP là xóa bỏ hàng rào thuế quan đến 90% các dòng thuế có thể về mức 0%, do vậy các hàng hóa có chất lượng cao từ Mỹ, Nhật Bản, Australia, New Zealand vào Việt Nam sẽ kích thích tiêu dùng nhờ giá cả phù hợp. Bên cạnh đó, điều kiện lao động được cải thiện chắc chắn sẽ nâng cao thu nhập cho người lao động, nhờ vậy khuyến khích tiêu dùng. Cùng với sự tăng cường đầu tư của các nhà đầu tư trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam. Xuất khẩu được hưởng lợi nhất từ TPP, những mặt hàng chủ yếu là hàng dệt may và thủy sản do thị trường rộng mở với những điều kiện gần như là thuận lợi nhất [6, tr.2]. Những lợi ích to lớn từ TPP mang lại cho Việt Nam là rất rõ ràng, song những thách thức đặt ra cho Việt Nam cũng không nhỏ.  
 
3. Những thách thức với nền kinh tế Việt Nam
 
3.1. Về môi trường pháp lý, thể chế
 
TPP đòi hỏi một môi trường kinh doanh minh bạch và có tính cạnh tranh cao. Do vậy, khi tham gia TPP, Việt Nam phải đổi mới về mặt thể chế, bộ máy chính quyền và cộng đồng doanh nghiệp để có thể tham gia cuộc chơi này. Trên thực tế cho thấy, nhờ quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, nhất là từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã có bước tiến dài sau khi hoàn thiện khung pháp lý, sửa đổi, bổ sung một số đạo luật mới, quan trọng như: Luật Cạnh tranh (năm 2004), Luật Thương mại (năm 2005), Luật Sở hữu trí tuệ (năm 2005), Luật Đàm phán ký kết và Gia nhập các điều ước quốc tế (năm 2005), Luật Luật sư (2006, sửa đổi năm 2012), Luật Phá sản (năm 2014), Luật Doanh nghiệp (2014), Luật Đầu tư (2014)... Nhưng việc triển khai luật này vẫn còn chậm so với yêu cầu đặt ra và chưa thực sự đáp ứng các yêu cầu cao của hội nhập quốc tế nói chung và tham gia TPP nói riêng. Hệ thống các quy định của Việt Nam nhìn chung chưa phát triển bằng những hệ thống quy định của các nước khác thành viên TPP. Do đó, việc đưa hệ thống quy định lên một mức tương xứng với các bên khác là một thách thức.
 
Quá trình triển khai thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế chưa được mạnh mẽ, đồng bộ trong thực tiễn. Bộ máy quản lý nhà nước còn tương đối cồng kềnh; người lao động, kể cả cán bộ lãnh đạo quản lý có tư duy đổi mới hạn chế, nhận thức về kinh tế thị trường, cạnh tranh thị trường không sâu, dẫn đến thực hiện đổi mới ở nhiều nơi thiếu kiên quyết, triệt để.
 
Tham gia TPP, thực hiện các cam kết của hiệp định này đặt ra một sức ép rất lớn đối với việc kiện toàn khung khổ pháp luật và chỉ tiêu theo tiêu Chuẩn quốc tế. Các văn bản luật quy định chế tài xử phạt đối với các vi phạm về luật sở hữu trí tuệ, môi trường... chưa được điều chỉnh cho phù hợp để đảm bảo thực thi cam kết của Việt Nam đối với các bên tham gia TPP. Để bảo hộ hàng hóa trong nước, Việt Nam vẫn còn thiếu biện pháp sử dụng hàng rào phi thuế quan. Nếu rào cản kỹ thuật chưa có, hoặc yếu kém, các biện pháp vệ sinh dịch tễ không bảo đảm sẽ khiến Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng thấp.
 
3.2. Về cạnh tranh, thương mại hàng hoá
 
Tham gia TPP, nền kinh tế Việt Nam chịu sức ép cạnh tranh rất lớn. Việt Nam có thế mạnh trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên ở một số ngành nghề, sản phẩm hàng hóa chưa tốt. Ví dụ như, ngành chăn nuôi, các mặt hàng xuất khẩu nông sản, khoáng sản chủ lực của Việt Nam (dưới dạng thô hoặc sơ chế, cho giá trị gia tăng thấp) do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, năng suất lao động thấp, áp dụng tiến bộ khoa học hạn chế, phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, nên có giá thành sản phẩm cao. Đây sẽ là ngành, hàng hóa gặp nhiều khó khăn nhất khi TPP có hiệu lực.
 
Theo cam kết, các nước TPP phải thực hiện mở cửa tự do thị trường đầu tư, dịch vụ, thương mại. Thực hiện cam kết này sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng luồng hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt Nam với giá cạnh tranh, trong khi rào cản kỹ thuật của Việt Nam chưa có hoặc không cao; điều đó làm cho hàng hóa Việt Nam trên thị trường nội địa gặp bất lợi. Ví dụ, ở thị trường Việt Nam hiện nay nhiều loại gạo chất lượng cao của Thái Lan, Nhật Bản đang chiếm lĩnh thị phần [3, tr.6]. Đối với những mặt hàng chủ lực như dệt may và da giầy xuất khẩu thì phải đáp ứng quy định về chứng minh xuất xứ nội khối, không sử dụng các nguyên liệu của nước thứ ba ngoài thành viên TPP, ví dụ như ngành dệt may của Việt Nam là ngành xuất khẩu chủ lực nhưng 75% nguyên vật liệu nhập từ Trung Quốc, trong khi đó Trung Quốc không tham gia TPP. Do công nghiệp phụ trợ của Việt Nam chưa phát triển nên rất nhiều ngành sản xuất khác của Việt Nam cũng ở trong hoàn cảnh tương tự không được hưởng ưu đãi thuế quan. Trong khi đó, phần lớn hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tuy tăng trưởng nhanh, nhưng lại dễ bị tổn thương trước biến động từ bên ngoài, như giá cả thị trường thế giới, sự xuất hiện rào cản thương mại mới, hàng rào phi thuế quan của các nước nhập khẩu như dư lượng hoá chất, bao bì, nhãn mác,...
 
3.3. Về tài chính ngân hàng
 
Tham gia TPP, mặc dù có những giới hạn nhất định cho việc mở cửa thị trường ngân hàng, nhưng các điều kiện để tiếp cận thị trường trong lĩnh vực này sẽ dần được xoá bỏ. Đây có thể được coi như một thách thức của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Hệ thống ngân hàng Việt Nam tuy đã có những tiến bộ, nhưng vẫn còn yếu kém, nợ xấu, năng lực quản lý thấp, quản trị rủi ro tại các ngân hàng còn nhiều bất cập... Tính đến đầu năm 2016, cả nước có 9.673 chi nhánh và phòng giao dịch ngân hàng thương mại. Hệ thống máy ATM, máy chấp nhận thanh toán thẻ (POS), các kênh Internet banking, Mobile banking được các ngân hàng chú trọng phát triển. Tuy vậy, nếu so sánh với một số nước trong khu vực và trên thế giới nói chung thì khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam còn chưa cao, mức độ phân bố các chi nhánh và phòng giao dịch chưa đồng đều.
 
Đánh giá chung về kinh tế Việt Nam, Ngân hàng Thế giới cho hay, ở trung hạn, kinh tế Việt Nam phát triển tích cực, nhưng vẫn còn tiềm ẩn một số rủi ro. Mất cân đối tài khóa kéo dài đang gây quan ngại trong bối cảnh nợ công tăng. Tình hình thu ngân sách năm 2015 đến nay cho thấy áp lực tài khóa còn tiếp diễn với thâm hụt ngân sách (tính cả trả nợ gốc) dự tính chiếm 5,6% GDP trong nửa đầu năm 2015. Điều đó thể hiện thu ngân sách hiệu quả kém trong khi chi thường xuyên và chi đầu tư cơ bản tăng.
 
Tổng nợ công tiếp tục tăng và đạt mức 59,6% GDP trong năm 2014, từ mức 54,5% GDP trong năm 2013. Tuy nợ công vẫn nằm trong giới hạn, nhưng chi phí trả nợ đã bắt đầu ăn vào các khoản chi hỗ trợ sản xuất trong ngân sách.
 
Tiến bộ trong quá trình tái cơ cấu cũng không đồng đều, nhất là trong ngành ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa, thoái vốn của doanh nghiệp nhà nước đã chậm lại trong năm 2015. Kế hoạch cổ phần hóa (CPH) DNNN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt giai đoạn 2011 - 2015 dự kiến là 527 DN. Tuy nhiên, năm 2015 là năm cuối của kế hoạch CPH kết thúc, nhưng theo số liệu của Bộ Tài chính, tính đến tháng 11 - 2015, cả nước còn phải thực hiện CPH 130 DN [7]. Hoạt động tái cơ cấu ngân hàng đã tăng tốc trong nửa đầu năm 2015 nhưng nợ xấu vẫn là vấn đề lớn. Thiếu nguồn tài chính, năng lực chuyên môn thấp, không có khung pháp lý phù hợp vẫn là những yếu tố cản trở Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) giải quyết nợ xấu.
 
Bên cạnh đó, vấn đề quản trị rủi ro tại các ngân hàng trong nước còn nhiều bất cập. Một số ngân hàng có năng lực quản lý yếu kém, vi phạm các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp và quản trị rủi ro. Chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng diễn biến theo chiều hướng tiêu cực. Nhiều ngân hàng có tỷ lệ vốn thấp, thậm chí có ngân hàng còn thấp hơn tỷ lệ quy định của Ngân hàng nhà nước là 9%. Theo ước tính, hệ số an toàn vốn của toàn hệ thống ngân hàng chỉ đứng ở mức 8,5%, con số khá thấp so với các nước trong khu vực như Trung Quốc (11%), Thái Lan (15,7%), Philipinnes (15,2%) [8].
 
3.4. Về mở cửa thị trường mua sắm công
 
Đối với Việt Nam, việc mở cửa thị trường mua sắm công (hay mua sắm Chính phủ) là hoàn toàn mới, chỉ đến thời điểm này mới xuất hiện ở TPP và FTA với Liên minh Châu Âu (EU). Tuy nhiên, trên bình diện quốc tế, các FTA thế hệ mới đều gắn liền với việc mở cửa thị trường mua sắm công.
 
Theo TPP, các quy tắc, quy trình trong quá trình lựa chọn nhà thầu phải ở mức độ yêu cầu cao về tính công bằng, công khai, minh bạch. Việt Nam sẽ phải tổ chức lựa chọn nhà thầu trong khối nước tham gia TPP (đấu thầu nội khối) hoặc đấu thầu quốc tế cho phép các nước TPP tham dự thầu. Chủ đầu tư có nghĩa vụ đối xử với nhà thầu, hàng hóa Việt Nam và nhà thầu, hàng hóa của các nước thành viên nội khối TPP một cách công bằng.
 
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, mở cửa thị trường mua sắm công sẽ gây ra những tác động bất lợi do sự thâm nhập của các nhà thầu nước ngoài khiến các nhà thầu nội địa không cạnh tranh nổi; ngược lại, khả năng tiếp cận và thắng thầu của các nhà thầu nội địa trên thị trường mua sắm công của các đối tác TPP là hầu như không có do hạn chế về năng lực cạnh tranh. Về lâu dài, nếu không chịu đổi mới, vươn lên, vẫn chờ đợi vào “quan hệ”, “dựa dẫm” thì khả năng thắng thầu của các nhà thầu Việt Nam trong thị trường mua sắm công cũng sẽ bị thu hẹp, dẫn đến ảnh hưởng tới công ăn việc làm, thị phần của doanh nghiệp trong nước. Thách thức lớn nhất hiện nay đó là nhà thầu Việt Nam phải cạnh tranh sòng phẳng, làm ăn chân chính.
 
3.5. Về doanh nghiệp
 
TPP hướng tới một sân chơi bình đẳng, không phân biệt quốc gia phát triển hay đang phát triển, trong khi quy định của WTO và các hiệp định khác vẫn có chính sách ưu tiên cho các quốc gia đang phát triển. Như vậy, rõ ràng đây là bất lợi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi không có đủ tiềm lực để cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp Mỹ, New Zealand, hay Australia.
 
Các nước tham gia TPP cam kết thực thi các yêu cầu cao về môi trường, lao động, cạnh tranh... và các ràng buộc mang tính thủ tục trong các quy định liên quan đến rào cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ. Các kết quả đàm phán FTA của Mỹ trong giai đoạn gần đây cho thấy nước này đặc biệt chú trọng đến việc tuân thủ các yêu cầu cao về môi trường và lao động hay các quy định ràng buộc về hàng rào kỹ thuật thương mại (TBT), biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS)... Điều này đã tạo ra những khó khăn cũng như làm phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp Việt Nam, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Những ngành hàng xuất khẩu mà doanh nghiệp Việt Nam thực sự gặp khó khăn là: thịt bò, thịt lợn, đường, thực phẩm chế biến, hóa phẩm tiêu dùng và ô tô.
 
TPP đặt ra yêu cầu cao việc thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Mỹ là đối tác rất coi trọng những vấn đề liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cả trong WTO lẫn trong các FTA của nước này. Tuy nhiên, đây lại là một vấn đề lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam vì hiện nay, tuy đã tham gia Công ước Bern nhưng Việt Nam vẫn chưa có các thiết chế bảo hộ hiệu quả, số vụ việc vi phạm sở hữu trí tuệ còn rất lớn.
 
Để thu lợi tối đa từ TPP, doanh nghiệp Việt Nam đứng trước thách thức quan trọng nhất là việc tiến hành tái cơ cấu thành công DNNN. Trước tiên, những doanh nghiệp nào vẫn còn dựa vào sự bao cấp của Nhà nước, có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu, việc sử dụng vốn và quản trị thiếu hiệu quả sẽ rơi vào tình trạng khó khăn (thậm chí phá sản), kéo theo khả năng thất nghiệp trong một bộ phận lao động. Tuy nhiên, đây là tác động tiêu cực mang tính cục bộ, ngắn hạn.
 
Ngoài ra, nhân lực cũng là vấn đề tạo khó khăn cho doanh nghiệp. Trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài vào đầu tư, sản xuất tại Việt Nam sẽ tạo áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Đối với những doanh nghiệp có hệ thống quản lý tốt, trang thiệt bị hiện đại, tính chuyên môn hóa cao, ngang bằng với doanh nghiệp nước ngoài thì có thể trụ vững. Những doanh nghiệp yếu thế hơn sẽ bị cạnh tranh rất khốc liệt về lao động bởi doanh nghiệp nước ngoài có chính sách ưu đãi, trả lương cao hơn để thu hút lao động có tay nghề, chuyên môn sang làm việc.
 
4. Giải pháp đối với Việt Nam
 
4.1. Về phía Nhà nước
 
Một là, cần cụ thể hóa những quy định đã có trong Hiến pháp năm 2013, tiếp tục sửa đổi, bổ sung hệ thống luật pháp cho phù hợp với những cam kết quốc tế. Từ nay đến năm 2020, Quốc hội tiếp tục phải sửa 87 đạo luật [4]. Tiếp tục rà soát sự vận hành của các loại thị trường (thị trường lao động, đất đai, chứng khoán...), các nhân tố của sản xuất, kinh doanh bảo đảm vận hành đầy đủ, đồng bộ, gắn với các quy phạm pháp luật, tương thích với cam kết trong TPP, các FTA Việt Nam - EU (EVFTA), FTA giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu.
 
Bên cạnh đó, đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia. Tạo cơ chế, chính sách thúc đẩy sự liên kết giữa các vùng miền, các sản phẩm có lợi thế xuất khẩu với giá trị cao.
 
Hai là, đẩy mạnh thực hiện các cam kết cải cách, tái cơ cấu nền kinh tế, tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm: đầu tư công, tài chính, doanh nghiệp và tái cơ cấu nông nghiệp. Đây là một yêu cầu ngày càng cấp bách trong thời kỳ hội nhập.
 
Tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá. Việt Nam cần thực hiện mở cửa có giới hạn các giao dịch vốn, thẩm định kỹ lưỡng các dự án sử dụng vốn nước ngoài, giám sát chặt chẽ sự chu chuyển của các dòng vốn ngắn hạn và các giao dịch vốn trên thị trường chứng khoán. Cần thực hiện mở cửa từng bước thị trường vốn cho nhà đầu tư nước ngoài theo lộ trình hội nhập, đảm bảo dựa trên cam kết quốc tế và cần phù hợp với khả năng giám sát và quản lý nguồn vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài [1, tr.33].
 
Ba là, đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến về TPP tới các doanh nghiệp, người dân trong từng ngành, từng lĩnh vực để có nhận thức rõ và đầy đủ những nội dung đã được cam kết trong TPP cũng như những diễn biến mới của kinh tế thế giới khi TPP chính thức có hiệu lực. Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền, Bộ Công Thương chỉ đạo Văn phòng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế phối hợp với Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trên toàn quốc triển khai các hội nghị “Phổ biến thông tin về những cam kết TPP” theo từng lĩnh vực cụ thể như: ngành dệt may, dầy dép, điện tử, tài chính... trong việc thực hiện hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, quy tắc xuất xứ, thủ tục hải quan. Trên cơ sở đó, người dân, cộng đồng doanh nghiệp sẽ chủ động xác định chiến lược, mục tiêu kinh doanh của mình, nhanh chóng thích nghi và đáp ứng yêu cầu đặt ra trong bối cảnh mới. Đồng thời, lựa chọn các ngành, các sản phẩm quan trọng có ưu thế cạnh tranh để đẩy mạnh xuất khẩu và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
 
Bốn là, có những giải pháp ứng phó với các tác động tiêu cực của TPP, cần chú trọng những ngành chủ lực, dễ bị ảnh hưởng nhất, ví dụ đối với dệt may, cần phải phát triển ngành công nghiệp phụ trợ để giảm nhập khẩu nguyên liệu từ nước khác; với ngành thuỷ sản cần nâng cao chất lượng, đáp ứng tiêu chuẩn ngày càng cao của thị trường như Mỹ; đối với doanh nghiệp nhà nước cần có phương án hỗ trợ bảo hiểm, đào tạo nghề cho người lao động mất việc làm... Đối với lĩnh vực lao động, tiếp tục cải thiện pháp luật lao động, phù hợp với thực trạng và tình hình phát triển của Việt Nam, đồng thời tiến dần tới các tiêu chuẩn quốc tế về lao động. Hỗ trợ, giúp doanh nghiệp tiếp cận, tiếp thu và triển khai tốt các cam kết của TPP và xây dựng kế hoạch áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đào tạo chất lượng nguồn nhân lực cho từng lĩnh vực cụ thể và ở trình độ tương ứng.
 
4.2. Về phía doanh nghiệp
 
Một là, các doanh nghiệp Việt Nam cần tự đánh giá lại mình để tìm ra những ưu, khuyết điểm đã bộc lộ trong thời gian qua, đối chiếu với các điều kiện, tiêu chuẩn của TPP mà xác định rõ những vấn đề cần phải phát triển hoặc thu hẹp hoạt động một cách linh hoạt, phù hợp với từng doanh nghiệp, từng mặt hàng cụ thể. Doanh nghiệp chủ động đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, giá trị sản phẩm, xác lập các liên kết từ sản xuất, phân phối đến tiêu dùng và xuất khẩu, hình thành các chuỗi cung ứng để có thể tạo được chỗ đứng vững chắc trong các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
 
Hai là, các doanh nghiệp cần chú trọng phát triển và đào tạo nguồn nhân lực; tiếp thu công nghệ khoa học - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước khác. Đồng thời, doanh nghiệp thường xuyên tiếp cận và cập nhật thông tin, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm, từ đó sẽ cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm một cách hiệu quả nhất.
 
Ba là, doanh nghiệp phải xây dựng thương hiệu. Để nâng cao sức cạnh tranh và khả năng phát triển thị trường, điều mấu chốt là xây dựng thương hiệu cho sản phẩm hàng hóa. Mặc dù Việt Nam có khá nhiều hàng hóa xuất khẩu lớn, nhưng ít có thương hiệu nổi tiếng hay đặc trưng cho Việt Nam. Một ví dụ khá sinh động như, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng hàng đầu thế giới, nhưng vẫn chưa có thương hiệu nổi tiếng, trong khi các thương hiệu gạo “Hương nhài - Jasmine”, gạo Basmati được gắn liền với các quốc gia sản xuất là Thái Lan, Ấn Độ và Pakistan trên thị trường thế giới.
 
Bốn là, TPP đặt ranhững quy định rất khắt khe về môi trường, lao động hay bảo hộ sở hữu trí tuệ. Điều đó cũng là xu hướng phát triển tất yếu của môi trường kinh doanh lành mạnh, văn minh trong thời đại ngày nay. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam cần phải từ bỏ lối kinh doanh cũ, cải cách hoạt động của doanh nghiệp mình cho phù hợp với xu thế của thời đại.
 
5. Kết luận
 
Cũng như quá trình gia nhập WTO và ký kết các FTA với các nước và đối tác trước đây, tham gia TPP, Việt Nam khẳng định một cách mạnh mẽ chủ trương tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Để đạt được sự thành công trong hội nhập quốc tế và thực hiện có hiệu quả lợi ích gia nhập TPP, vấn đề quan trọng đặt ra là, Nhà nước, người dân và doanh nghiệp Việt Nam cần có quyết tâm, chủ động khai thác, tận dụng những cơ hội và thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp trên đây để vượt qua những thách thức từ Hiệp định này. Có thể tin tưởng rằng, khi TPP bắt đầu có hiệu lực, phát huy những thành tựu đã đạt được trong 30 năm đổi mới, nhất là kinh nghiệm thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế những năm gần đây, Việt Nam sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn nữa, phát triển nhanh và bền vững đất nước.
 
Tài liệu tham khảo
 
[1]   Nguyễn Quốc Dũng (2015), “Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP): Cơ hội và thách thức đối với kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, số 10.
 
[2]   Nguyễn Tấn Dũng (2016), “Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, cơ hội và thách thức - hành động của chúng ta”, Báo Nhân dân, ngày 16-2.
 
[3]   Hà Văn Hội (2015), “Tham gia TPP: Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam”, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1.
 
[4]   Lê Minh Thông, Phát biểu tại Hội thảo về Quốc hội với việc đàm phán, kỷ kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTA), ngày 15/4/2014, Hà Nội.
 
[5]   “TPP - Hiệp định thương mại tự do của thế kỷ 21”, Báo Nhân Dân, ngày 8/10/2015.
 
[6]   Anh Vũ (2015), “TPP - Cửa đã mở”, Báo Nhân Dân, ngày 19/10.
 
[7]   “Thoái vốn, cổ phần hóa DNNN: lại lỗi hẹn”, Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam (VOV).
 
[8]   http://tapchitaichinh.vn
 
[9]   http://www.dsi.mpi.gov.vn/32/473.htlm
 
[10]      http://vietnamnet.vn
 
Tác giả: TS. Ngô Văn Vũ - TS. Lê Thị Thúy
Nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016
Tags: Khu vực hóa toàn cầu hóa hội nhập quốc tế Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương Ngô Văn Vũ Lê Thị Thúy khoa học xã hội nghiên cứu khoa học Viện hàn lâm khoa học xã hội Viện Hàn Lâm Tạp chí khoa học xã hội
Tin cùng chuyên mục