1. Thực trạng huy động nguồn vốn ở Việt Nam
Nguồn vốn của khu vực Nhà nước
Nguồn lực tài chính nhà nước dành cho đầu tư phát triển thường được tập trung cho các dự án trọng điểm, là động lực cho sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn này sẽ khơi thông các nguồn vốn đầu tư khác trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội từ các thành phần kinh tế khác, giúp cho phát triển cân đối ngành, vùng kinh tế.
Tỷ trọng nguồn vốn khu vực nhà nước trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội có xu hướng giảm nhanh: Giai đoạn 1996-2000 chiếm gần 54,3%, đến 2001-2005 chỉ còn 51,8% và giai đoạn 2011-2015 là 39,1%, riêng năm 2013 là 40,4%. Xu hướng giảm này là phù hợp với quá trình thực hiện chủ trương cấu trúc lại nền kinh tế và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Điều này cũng phù hợp với định hướng chiến lược của Đảng ta, Nhà nước là chỉ nắm giữ những lĩnh vực có vị trí chiến lược quốc gia, có vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân mà không đầu tư tràn lan, mặt khác Nhà nước sẽ chuyển dần nguồn vốn sang các lĩnh vực, vùng mà khu vực tư nhân ít đầu tư hoặc không đủ khả năng, tiềm lực để đầu tư, đảm bảo tính cân đối nền kinh tế quốc dân.
Thực tế cho thấy, nguồn vốn đầu tư nhà nước đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế, có tác dụng định hướng và tạo môi trường thuận lợi trong việc thu hút các nguồn vốn khác, có ý nghĩa quyết định đến quá trình tăng trưởng kinh tế. Tỷ trọng của nguồn vốn từ khu vực Nhà nước giảm trong khi vẫn bảo đảm được tốc độ tăng trưởng (ICOR giảm) cũng cho thấy tính hiệu quả đầu tư của khu vực này được nâng lên.
Quy mô nguồn vốn khu vực nhà nước phụ thuộc lớn vào thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, nguồn thu ngân sách của nước ta hiện nay còn một số yếu tố thiếu vững chắc. Trong cơ cấu tổng thu ngân sách nhà nước, thu nội địa chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu thu từ dầu thô và từ thuế nhập khẩu. Khoản thu này không trực tiếp phản ánh hiệu quả của sản xuất kinh doanh, đồng thời các nội dung thu này sẽ bị ảnh hưởng bởi nguồn dầu thô ngày càng cạn kiệt và lộ trình cắt giảm thuế quan.
Nguồn vốn từ khu vực ngoài nhà nước
Tỷ lệ nguồn vốn từ khu vực ngoài Nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng dần qua các giai đoạn. Giai đoạn 1996-2000 chiếm 24,1%, đến giai đoạn 2001-2005 là 32,5%, giai đoạn 2006-2010 là 36,1% và giai đoạn 2011-2015 là 38,3%(2). Điều này cho thấy, kinh tế ngoài nhà nước ngày càng phát triển và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành phần, đã phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế cho sự phát triển chung của đất nước. Đó là kết quả của cơ chế thị trường đã khai thông các nguồn vốn nói chung và vốn ngoài nhà nước nói riêng. Hiệu quả sử dụng nguồn vốn này rất cao vì tính linh hoạt và thận trọng trong sử dụng đồng vốn. Tuy quy mô vốn của các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước còn nhỏ nhưng tính linh hoạt trong điều kiện nền kinh tế mở đã góp phần giúp nền kinh tế quốc dân thích nghi nhanh với những thay đổi của kinh tế toàn cầu.
Nguồn vốn từ khu vực nước ngoài
Viện trợ phát triển chính thức (ODA)
Nguồn vốn ODA tại Việt Nam được thực hiện dưới 3 hình thức chủ yếu gồm nguồn vốn ODA viện trợ không hoàn lại (chiếm khoảng 10%-12%), nguồn vốn ODA vay ưu đãi (chiếm khoảng 80%) và nguồn vốn ODA hỗn hợp (chiếm khoảng 8%-10%)(3). Trong những năm qua, ODA cho Việt Nam không ngừng tăng lên cả về số vốn cam kết cũng như vốn giải ngân.
Giai đoạn 1993 - 1995, cộng đồng quốc tế cam kết dành ODA cho Việt Nam khoảng 6,01 tỷ USD, tỷ lệ giải ngân đạt gần 32% vốn cam kết. Giai đoạn 1996-2000, các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam 12,28%, gấp đôi giai đoạn trước.
Giai đoạn 2001-2005, Việt Nam khẳng định với thế giới về khả năng tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo, trong khi dòng vốn này trên thế giới có xu hướng giảm thì đối với Việt Nam lại tiếp tục tăng, kết quả trong giai đoạn này thu hút được 14,96 tỷ USD.
Giai đoạn 2006-2010, đây là giai đoạn Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới, trở thành thành viên chính thức của WTO, vốn ODA đạt được 28,05 tỷ USD vốn cam kết và tỷ lệ giải ngân đạt 44,21%.
Giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ giải ngân được cải thiện đáng kể, tuy nhiên tổng vốn đã ký kết của giai đoạn này chuyển sang giai đoạn 2016-2020 khoảng 22 tỷ USD(4).
Kết quả này có ý nghĩa sâu sắc, bởi nó đạt được trong bối cảnh khối lượng vốn ODA trên thế giới đang có xu hướng giảm sút, một số đối tác vẫn gia tăng viện trợ cho Việt Nam như: WB, ADB, Nhật Bản, EU. Điều này khẳng định uy tín và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng lên, bởi tốc độ tăng trưởng cao và thành công trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo...(5). Hơn 80 tỷ USD mà các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam trong gần 20 năm qua không chỉ mang đến cho Việt Nam nguồn vốn bổ sung quan trọng, phục vụ quá trình phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng hạ tầng, đào tạo phát triển nguồn nhân lực... mà quan trọng hơn là sự cam kết này cũng đồng thời khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc đổi mới và chính sách phát triển đúng đắn của Đảng và Chính phủ Việt Nam, sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào hiệu quả tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA của Việt Nam(6).
Tuy nhiên, tình hình giải ngân của các dự án ODA trong gần 25 năm qua chậm. Đặc biệt, quy mô nguồn vốn này có xu hướng giảm do hiện nay Việt Nam là nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình, các quan hệ kinh tế chuyển đổi cơ bản từ quan hệ viện trợ phát triển sang quan hệ đối tác.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Tính đến hết năm 2016, cả nước có 22.509 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt gần 293,25 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án FDI đạt hơn 154,54 tỷ USD (bằng gần 53% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực). Khu vực FDI đã đầu tư vào 19 trong tổng số 21 ngành, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất (58,8% tổng vốn đăng ký), kinh doanh bất động sản đứng thứ hai (17,7% tổng vốn đăng ký). Có 116 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam, trong đó Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 5.747 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50,7 tỷ USD (chiếm 17,3% tổng vốn đầu tư); đứng thứ 2 là Nhật Bản với 3.280 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 42 tỷ USD (chiếm 14,3% tổng vốn đầu tư).
Đến nay, FDI đã có mặt tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế. Xếp theo quy mô vốn, thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu với 6.737 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký hơn 44,82 tỷ USD, chiếm 15,3% tổng vốn đăng ký cả nước; thứ hai là Bà Rịa - Vũng Tàu với 342 dự án, vốn đăng ký 26,86 tỷ USD, chiếm 9,2%; thứ ba là Bình Dương với 3.035 dự án, vốn đăng ký 26,96 tỷ USD, chiếm 9,1%(7).
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã không ngừng được mở rộng và phát triển, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện trình độ công nghệ, nâng cao khả năng xuất khẩu và hội nhập, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần tích cực vào công cuộc CNH, HĐH.
Nguồn vốn kiều hối
Hiện nay có khoảng 4,5 triệu người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài, đây là nguồn lực to lớn xét cả về tiềm năng vốn đầu tư cũng như năng lực sáng tạo. Nguồn vốn kiều hối tăng dần qua các năm: Giai đoạn 1996-2000 là: 4,8 tỷ USD, giai đoạn 2001-2005 đạt 13,7 tỷ USD, giai đoạn 2006-2010 là 31,6 tỷ USD, giai đoạn 2011-2015 là 54,7 tỷ USD, đây là lượng vốn lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta trong quá trình phát triển. Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam lớn, đáp ứng nhu cầu đầu tư trong nước, giúp cân bằng cán cân thanh toán ngoại tệ. Nếu so với các nguồn thu ngoại tệ khác, lượng kiều hối mang về cho đất nước cao hơn hoạt động xuất nhập khẩu (thường là nhập siêu). Nếu tính lượng kiều hối so với GDP, Việt Nam đứng thứ 5 trên thế giới (khoảng 6% GDP, sau Bănglađét, Philippines, Ai Cập và Pakixtan(8)).
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình huy động và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế của nước ta còn những tồn tại sau:
Thứ nhất, khả năng giải ngân các dự án ODA còn chậm tiến độ và kém hiệu quả. Trong dài hạn, nguồn vốn này không được quản lý chặt chẽ sẽ để lại gánh nặng về nợ nước ngoài của quốc gia. Khung pháp lý còn nhiều khác biệt với thông lệ quốc tế và các nhà tài trợ.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư, nhưng hiệu quả sử dụng vốn từ các nguồn đầu tư thấp. Điều này thể hiện rõ ở một số công trình, dự án không phát huy được công năng một cách hiệu quả; hệ số ICOR của Việt Nam ở mức cao và có xu hướng tăng lên.
Hệ số ICOR cho thấy, trong giai đoạn 2001-2005, để tạo ra 1 đồng GDP Việt Nam phải đầu tư 4,88 đồng giá trị tích lũy tài sản; trong các giai đoạn tiếp theo hệ số ICOR đều ở mức cao, giai đoạn 2006-2010 là 6,96, giai đoạn 2011-2015 là 6,91. Như vậy, nền kinh tế tăng trưởng thấp hơn nhưng nhu cầu vốn nhiều hơn.
Thứ ba, quá trình tái cơ cấu đầu tư công tuy đạt được một số kết quả bước đầu nhưng tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả còn phổ biến, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, số lượng dự án duyệt chờ ngân sách cấp vốn ngày càng có xu hướng tăng, trên thực tế đã không còn phù hợp với khả năng cân đối vốn hàng năm. Thực hiện các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng ở các ngành, các địa phương, các chủ đầu tư chưa nghiêm đã dẫn đến thất thoát trong xây dựng cơ bản.
Thứ tư, việc huy động nguồn vốn đầu tư trong những năm qua gặp nhiều khó khăn, nguyên nhân là do thị trường nội địa kém phát triển, thu nhập và “cầu” của dân cư còn rất thấp; quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tiến hành chậm; các chính sách về huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế cho đầu tư chưa đủ sức hấp dẫn; môi trường đầu tư chưa tốt; bộ máy hành chính nhà nước chưa thật sự là bạn đồng hành của các nhà đầu tư.
Thứ năm, chất lượng nguồn vốn FDI còn nhiều hạn chế, chưa thu hút được nhiều dự án có hàm lượng công nghệ cao, có tác động lan tỏa, lôi kéo các ngành công nghiệp hiện đại. Tỷ lệ vốn FDI thực hiện so với vốn đăng ký còn thấp, tính đến hết năm 2016 chỉ đạt gần 46%.
Thứ sáu, chưa khai thác hết tiềm năng nguồn vốn khu vực ngoài nhà nước, chưa huy động vào đầu tư trực tiếp cho quá trình sản xuất kinh doanh. Dòng vốn chảy vào các lĩnh vực, ngành mang tính ngắn hạn, thiếu bền vững do yếu tố tâm lý chi phối mà ít tuân theo các quy luật của thị trường nên đôi khi tăng trưởng quá nóng hay quá lạnh. Số doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước phá sản hoặc dừng sản xuất tăng lên trong những năm gần đây. Cụ thể, năm 2010 số doanh nghiệp phá sản, dừng hoạt động là 43 nghìn, 2011 là 53 nghìn, 2012 là 54 nghìn, 2013 là 60,8 nghìn, 2014 là 67,8 nghìn và 2015 là 71,4 nghìn(9).
2. Giải pháp huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư
Đại hội XII của Đảng đề ra kế hoạch 5 năm 2016-2020: “Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5-7%/năm. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32-34% GDP”(10). Mặc dù, Chính phủ đã có nhiều cố gắng huy động tối đa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển, nhưng nhu cầu đầu tư của nền kinh là rất lớn. Do đó, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cần thực hiện các nhóm giải pháp có tính định hướng sau đây:
Một là, tạo lập môi trường đầu tư, xây dựng hệ thống pháp lý tiệm cận với quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Đây là giải pháp trung tâm trong việc huy động các nguồn vốn, vì nơi nào hiệu quả đầu tư càng cao thì nơi đó có khả năng huy động vốn càng lớn.
Hai là, tổ chức đánh giá tiềm năng về vốn đầu tư của các thành phần kinh tế, trong đó đặc biệt quan tâm đến khu vực tư nhân, từ đó có chính sách phù hợp nhằm khuyến khích, khơi dậy các nguồn vốn. Đồng thời, Nhà nước có chính sách mang tính định hướng để tạo sự liên kết giữa các nguồn đầu tư với nhau, để cùng phát triển.
Ba là, tăng cường thu hút nguồn vốn từ bên ngoài. Đối với nguồn vốn ODA, nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ 2016 - 2020 là phải tập trung hoàn thành các chương trình, dự án này theo đúng tiến độ và thời hạn cam kết, đưa các công trình vào khai thác, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cần nâng cao chất lượng các dự án FDI, vừa đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư, vừa hiện đại hóa được nền sản xuất trong nước. Tiếp tục khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư về nước bằng những chính sách ưu đãi hợp lý.
Bốn là, phát triển thị trường vốn, mà cốt lõi là thị trường chứng khoán, đây là trung tâm huy động mọi nguồn vốn tiết kiệm từ dân cư, vốn nhàn rỗi của doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ... hình thành một khối lượng vốn lớn. So với hình thức huy động vốn qua ngân hàng, thị trường chứng khoán là phương thức huy động vốn hiệu quả, tín dụng linh hoạt, đa dạng, đáp ứng nhanh nhu cầu về vốn của xã hội.
Năm là, tăng cường chức năng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong khai thông những ách tắc các dòng vốn đầu tư, trước hết là nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách vĩ mô có liên quan đến việc huy động các nguồn lực thuộc các thành phần kinh tế, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư.
Với quyết tâm cao của Chính phủ và môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng tốt hơn, hứa hẹn sẽ đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020 mà Đại hội XII đề ra.
____________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2017
(1) E.Wayne Nafziger: Kinh tế học của các nước đang phát triển, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998, tr.453.
(2) Tổng hợp của tác giả từ Niên giám thống kê qua các năm.
(3) http://vietnamnet.vn.
(4) http://vneconomy.vn.
(5) Thời báo Kinh tế Việt Nam: Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2003-2004,tr.46.
(6) http://baocongthuong.com.vn.
(7) Nguyễn Tấn Vinh: Nhìn lại giá trị của FDI ở Việt Nam sau gần 30 năm,Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 1-2017, tr.31.
(8), (9) Thời báo Kinh tế Việt Nam: Kinh tế 2015-2016, Việt Nam và Thế giới,tr.96, 70, 19.
(10) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,Hà Nội, 2016, tr.272.
TS Nguyễn Tấn Vinh Học viện Chính trị khu vực II/ lyluanchinhtri.vn